Một trong những điểm mới của Luật sửa đổi, bổ sung Luật BHYT 2024 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2025 là tại Khoản 2 Điều 1đã sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 3 Luật BHYT hiện hành như sau:
Như vậy, mức đóng bảo hiểm bên cạnh việc được xác định theo tỷ lệ phần trăm của tiền lương tháng, tiền lương hưu, tiền trợ cấp (như hiện nay) còn được xác định theo mức tham chiếu (thay cho hiện hành đang được quy định là mức lương cơ sở)
Như vậy, mức đóng bảo hiểm bên cạnh việc được xác định theo tỷ lệ phần trăm của tiền lương tháng, tiền lương hưu, tiền trợ cấp (như hiện nay) còn được xác định theo mức tham chiếu (thay cho hiện hành đang được quy định là mức lương cơ sở)
Có nghĩa, thay vì căn cứ vào mức lương cơ sở để tính đóng BHYT như hiện nay thì từ 01/7/2025, Chính phủ sẽ căn cứ vào mức tham chiếu. Mức tiền lương tháng tối đa để tính số tiền đóng BHYT là 20 lần mức tham chiếu.
– Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ đủ 01 tháng trở lên…
– Người có công với cách mạng theo quy định của Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng; cựu chiến binh;
Cán bộ, công chức, viên chức…
– Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp đương nhiệm;
– Trẻ em dưới 6 tuổi;
– Trẻ em dưới 6 tuổi;
– Thân nhân của người có công với cách mạng, vợ hoặc chồng liệt sĩ lấy chồng khác hoặc vợ khác đang hưởng trợ cấp tuất hằng tháng và cá nhân có liên quan theo quy định của Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng;
– Thân nhân của các đối tượng hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân đang tại ngũ; hạ sĩ quan, chiến sĩ nghĩa vụ trong công an nhân dân; học viên quân đội, học viên công an, học viên cơ yếu hưởng sinh hoạt phí là người Việt Nam;
Học viên quân đội, học viên công an, học viên cơ yếu hưởng sinh hoạt phí là người nước ngoài;
– Người đã hiến bộ phận cơ thể người theo quy định của pháp luật;
– Người nước ngoài đang học tập tại Việt Nam được cấp học bổng từ ngân sách của Nhà nước Việt Nam;
– Người thuộc hộ gia đình nghèo; người dân tộc thiểu số thuộc hộ gia đình cận nghèo đang cư trú tại xã, thôn thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; người dân tộc thiểu số đang cư trú tại vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn; người đang cư trú tại vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn; người đang sinh sống tại xã đảo, huyện đảo;